Nếu những chương đó có những câu tóm lược trong phần mở đầu hay kết thúc như thường thấy, hãy đọc chúng thật kỹ. Câu và đoạn văn là các đơn vị ngữ pháp, đồng thời là đơn vị ngôn ngữ. Trong khi các chương của một cuốn tiểu thuyết, các hồi của một vở kịch hoặc các khổ thơ thường sẽ trở nên vô nghĩa khi bị tách khỏi một tác phẩm nguyên vẹn.
Xây dựng một hệ thống thuật ngữ trung tính về chủ đề mà ta cho rằng tất cả hoặc đa số tác giả đều sử dụng đến chúng, dù họ có thật sự dùng hay không. Ngày nay, người ta rất coi trọng các khoa dạy lịch sử khoa học, các nhà khoa học giỏi nghiên cứu và viết về lịch sử. Giả sử bạn là một thám tử truy tìm manh mối chủ đề hay ý chung của một cuốn sách, bạn luôn tỉnh táo để nhận biết bất cứ điểu gì làm cho chủ đề rõ rằng hơn.
Vậy làm như thế nào để phân biệt được sách về triết học và sách khoa học? Nếu một cuốn sách tập trung nói về những điều nằm ngoài phạm vi kinh nghiệm thường ngày, lặp đi lặp lại của bạn, thì đó là sách khoa học. Trong trường hợp đó, anh ta buộc phải sắp đặt nguyên nhân của các sự kiện cũng như động cơ của những hành động đó. Lấy ý kiến của người khác không phải là trả lời mà là lẩn tránh các câu hỏi.
Ví dụ, khi đọc một tác phẩm về kinh tế, tiêu biểu như cuốn The Wealth of Nations (Sự thịnh vượng của các quốc gia) của Adam Smith, nếu bạn cứ nhất quyết phải hiểu tất cả những gì đọc được trong mỗi trang rồi mới đọc trang tiếp theo, thì bạn sẽ không đọc lâu được. Các triết gia không làm việc trong phòng thí nghiệm, cũng không nghiên cứu thực địa. Bạn phải thực hành đọc, không chỉ đọc cuốn sách này mà còn phải đọc nhiều cuốn khác.
Trong đó, các quy tắc của giai đoạn thứ ba được liệt kê theo trật tự dưới đây: Trên thực tế, bất cứ nhà thơ tài danh nào cũng thường cố ý tạo ra sự mập mờ trong tác phẩm của mình. Điều này xuất phát từ bản chất phức tạp của con người.
Đến đây, chúng ta đã tìm ra các phần trong sách có liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu; tạo được một hệ thống thuật ngữ trung lập có thể áp dụng với tất cả hoặc đa số các tác giả; tạo khung và sắp xếp một loạt câu hỏi coi như sẽ được giải đáp trong các sách; xác định và sắp xếp các vấn đề nảy sinh từ các câu trả lời khác nhau. Một số từ cụ thể gợi lên những phản ứng đặc biệt từ chúng ta mà thường không thể có được ở các độc giả sống cách đây một thế kỷ, ví dụ như từ Chủ nghĩa Cộng sản hay người cộng sản. Ngay cả khi bạn không còn hứng thú với việc đọc nữa, bạn vẫn sẽ nhận thấy hiểu biết của mình về sách vở được tăng lên đáng kể, chỉ cần bạn xác định được những từ quan trọng, tìm ra sự biến đổi sắc thái ý nghĩa và hiểu được dụng ý của tác giả.
Chúng ta luôn trộng đợi một tác giả có năng lực sẽ vượt qua mọi rào cản ngôn ngữ để đến với độc giả, nhưng thực tế không tác giả nào có thể hoàn toàn tự mình gánh vác nhiệm vụ này. Tóm lại, hai nhận xét đầu chỉ ra khuyết điểm của tác giả trong cơ sở lập luận. Bất kỳ cuốn bách khoa toàn thư tốt nào cũng có phần hướng dẫn giúp người đọc sử dụng sách hiệu quả.
Sau khi nói ra điểm mình thích hoặc không thích cùng các lý do, bạn cần chỉ ra điểm tốt, điểm không tốt của cuốn sách và tại sao. Thiên kiến có thể xen vào bất cứ lúc nào, dù biểu hiện chỉ là mơ hồ nhất qua cách tóm tắt các luận điểm, nhấn lướt các ý, qua giọng điệu đặt câu hỏi hoặc màu sắc đậm nhạt của một điểm ta lưu ý hay qua trình tự trình bày các câu trả lời cho những câu hỏi trọng tâm. Khi đạt được sự cân bằng, nghĩa là đạt được sự rõ ràng trong thông tin.
Bạn càng hiểu những dấu hiệu giúp phân biệt sách lý thuyết với sách thực hành bao nhiêu, bạn càng sử dụng chúng tốt bấy nhiêu. Hoặc là bạn sẽ thấy hóa ra cuốn sách có ít thứ cần hiểu hơn bạn tưởng. Một độc giả không thể phân tích ngôn từ để hiểu những thuật ngữ và nhận định ẩn trong đó thì cũng không thể đối chiếu các tác phẩm liên quan đến nhau.
Họ đã quen với những ẩn ý, những biến đổi sắc thái ý nghĩa của các từ đó trong từng hoàn cảnh cụ thể. Cùng một từ nhưng có thể có những cách sử dụng khác nhau, chuyển từ phần này sang phần khác, đặc biệt là trong một ngôn ngữ không có nhiều biến tố như tiếng Anh. Aristotle gọi nguyên nhân hiểu này là một bước chuyển tại chỗ.