Nếu đúng vậy, nó sẽ có thêm một tiếng nói trong cuộc tranh luận và mất đi bản chất khách quan, độc lập của mình. Thực tế, Tolstoy từng nói rằng ông đã biết thêm nhiều về trận Waterloo nhờ sự lý giải của Stendhal. Câu hỏi thứ nhất (Cuốn sách viết về cái gì?) không thay đổi nhiều lắm.
Như Sorattes nói: Nhà triết học không suy nghĩ đơn độc mà phải đối diện với các đối thủ trên một thị trường trí tuệ. Do đó họ đã đặt những câu hỏi mà đáng lẽ nên để lại cho các nghiên cứu khoa học sau này. Vấn đề là cái nào được nhấn mạnh hơn.
Chúng ta đã thấy lịch sử là sự trộn lẫn giữa hư cấu và khoa học như thế nào và chúng ta phải đọc lịch sử với nhận thức đó trong đầu ra sao. Ông đã không xét đến các tiên đề khác về mối liên hệ giữa các đường thẳng song song. Quan trọng hơn cả, nếu bạn thật sự muốn mình học tập tiến bộ, bạn sẽ biết sử dụng từ điển theo đúng ý định ban đầu của người biên soạn.
Điều này giải thích tại sao quy tắc 5 của phương pháp đọc phân tích liên quan đến từ vựng và thuật ngữ, trong khi quy tắc 6 mà chúng tôi sắp đề cập lại liên quan đến câu và mệnh đề. Với sách khoa học, câu trả lời cho câu hỏi này ngầm yêu cầu người đọc thực hiện một số hành động. Thứ ba, trước khi tham khảo một cuốn sách, bạn phải biết rõ cuốn sách đó được kết cấu như thế nào, từ đó biết cách sử dụng nó.
Nếu tác giả các cuốn sách tồi dùng lối viết hàm ngôn, bạn sẽ không thể hiểu được dụng ý của tác giả ngoại trừ việc nhận ra sự diễn đạt thiếu chính xác của anh ta. Ngược lại, sách triết học quy phạm quan tâm chủ yếu đến các mục tiêu mà mọi người nên tìm kiếm như sống tốt hay xây dựng một xã hội tốt. Ví dụ, nếu bạn nói mọi người đều bình đẳng, chúng tôi có thể nghĩ là bạn cho rằng khi sinh ra, ai cũng được tạo hoá ban cho trí thông minh, sức khoẻ và những khả năng khác hoàn toàn như nhau.
Đây là kiểu đọc ít đòi hỏi nhất, và yêu cầu ít nỗ lực nhất. Bằng không, đó là một tác phẩm triết học. Ví dụ, trong cuốn sách này, từ reading (đọc) đã được sử dụng với nhiều nghĩa khác nhau: (1) đọc để giải trí, (2) đọc để lấy thông tin, (3) đọc để hiểu biết.
Chúng tôi muốn gọi đó là những ghi chú có tính biện chứng (lý do sẽ được giải thích trong Phần 4). Nói cách khác, ông đã dựa trên ngôn ngữ đời thường để truyền đạt ý tưởng của mình tới độc giả. Họ nói rằng hoàn toàn sai lầm khi áp đặt một hệ thống thuật ngữ dù là trung tính lên một tác giả.
Nếu độc giả nào không nhận thấy sự chuyển đổi này thì rất khó có thể giao tiếp hay làm việc. Nhưng cũng đúng khi khẳng định rằng quy tắc càng chung chung thì chúng càng khác xa với những tình huống phức tạp của thực tế, trong khi bạn vẫn phải tuân theo các quy tắc đó. Tolstoy từng có một thuyết về lịch sử.
Những vấn đề về thực tế hay quan điểm, những nhận định về cách tồn tại của các sự vật hay cách mà chúng nên tồn tại chỉ trở thành điều đáng bàn cãi khi chúng được dựa trên sự đồng hiểu biết giữa các bên. Tán thành mà không hiểu gì là vô nghĩa, còn phản đối mà thiếu hiểu biết là trơ tráo. Khi ấy, phải coi câu hỏi đó là chưa có hồi âm.
Syntopicon cũng có thể gợi ý cho ta nhiều điều về đọc chọn đoạn cùng chủ đề trong các tác phẩm lớn. Việc đọc qua cuốn sách không giúp bạn hiểu hết được tính phức tạp của chủ đề hay toàn bộ ý tứ sâu xa mà tác giả gửi gắm, nhưng nó sẽ thực hiện hai chức năng chính. Có thể hiểu từ phương tiện theo hai cách.